Loading

Thứ Ba, 14 tháng 7, 2015

Bệnh viêm họng hạt và cách điều trị

By With Không có nhận xét nào:
Bệnh viêm họng hạt và cách điều trị – Bệnh viêm họng hạt là căn bệnh khá phổ biến trong các bệnh lý liên quan đến đường hô hấp . Bệnh do nhiều nguyên nhân gây ra và thường gây cảm giác khó chịu, dễ tái phát

Viêm họng hạt tuy không gây ảnh hưởng tới tính mạng người bệnh nhưng làm suy giảm chất lượng cuộc sống của họ. Bệnh nhân bị viêm họng hạt gặp khó khăn trong giao tiếp do ngứa, vướng họng khi đang nói chuyện, vừa nói vừa phải dừng lại để khạc đờm.


Viêm họng hạt có nhiều nguyên nhân gây ra, muốn điều trị triệt để viêm họng hạt phải tìm đúng nguyên nhân gây bệnh để giải quyết.
Viêm họng hạt thường là hậu quả bắt nguồn do viêm mũi xoang mạn tính, đặc biệt là viêm xoang sau. Dịch xuất tiết chảy từ các xoang xuống thành sau họng làm cho niêm mạc thành sau họng bị lớp chất nhầy bao phủ, khó hoạt động để thực hiện các chức năng sinh lý là làm sạch, vì vậy vi khuẩn dễ phát triển làm họng viêm thường xuyên – đây là điều kiện để viêm họng tái diễn và từ đó các hạt ở thành sau họng xuất hiện.
Viêm amiđan mạn tính cũng thường đi đôi với viêm họng hạt vì viêm amidan thực chất cũng là một dạng viêm họng khu trú ở amidan khẩu cái – cũng là tổ chức lymho ở thành sau họng. Khi bệnh nhân có chỉ định cắt amidan thì đôi khi viêm họng hạt cũng xuất hiện, thậm chí nặng hơn do các tổ chức lympho thành sau họng phát triển để bù đắp lại phần đã bị cắt bỏ.
Hội chứng trào ngược dạ dày – thực quản cũng là một trong những nguyên nhân được nghiên cứu để điều trị viêm họng hạt. Sự xuất hiện thường xuyên của dịch dạ dày làm pH của vùng họng giảm, niêm mạc họng trước đây hoạt động trong môi trường kiềm nhẹ nay lại phải hoạt động trong môi trường acid – là môi trường thích hợp cho các loại vi khuẩn gây bệnh hoạt động.
Tỷ lệ viêm họng hạt ở những người suy gan, rối loạn dạ dày ruột, rối loạn nội tiết cao gấp 3 – 4 lần những người khác. Điều này đặc biệt rõ nét ở bệnh tiểu đường (họng đỏ và khô), tạng khớp (niêm mạc họng đỏ quá phát), trĩ mũi: niêm mạc họng teo, nhẵn khô và có vảy thối.
Triệu chứng của bệnh viêm họng hạt
Nói chung viêm họng hạt triệu chứng rất nghèo nàn, không sốt. Người bệnh thường có cảm giác ngứa họng, vướng trong họng cho nên hay khạc, nhổ và mỗi lần khạc là mỗi lần cảm giác ngứa họng lại giảm đi. Một số người bệnh đôi khi cảm thấy họng bị khô, rát rất khó chịu. Việc điều trị viêm họng hạt cũng còn gặp khó khăn. Việc điều trị chỉ bằng đốt các hạt bởi hoá chất hay đốt điện thì rất khó giải quyết dứt điểm viêm họng hạt được. Lý do khó thành công bởi vì mỗi lần đốt chỉ được một số hạt to và mỗi lần đốt như vậy lại kích thích vùng niêm mạc xung quanh đó cũng như các hạt nằm trên vùng niêm mạc đó có thể phát triển nhanh hơn. Nếu chỉ đốt hạt đơn thuần mà không điều trị hiện tượng viêm nhiễm thì khó có thể khỏi bệnh được, bệnh lại tái phát và nhiều khi còn nặng hơn. Vì vậy để điều trị viêm họng hạt có hiệu quả cao người ta khuyên cần loại bỏ hiện tượng viêm nhiễm do vi khuẩn hoặc do vi nấm gây ra. Muốn làm được điều đó rất cần xác định viêm họng hạt do vi khuẩn hay vi nấm gây ra. Để làm được điều đó thì cần nuôi cấy, phân lập được vi khuẩn hoặc vi nấm và làm kháng sinh đồ để lựa chọn kháng sinh thích hợp cho điều trị tiêu diệt mầm bệnh là lý tưởng nhất. Bên cạnh đó cần khám mũi, xoang xem có bị viêm nhiễm hay không, nếu có phải điều trị kết hợp lúc đó mới hy vọng điều trị viêm họng hạt có kết quả.

Viêm họng hạt được coi là một bệnh khó điều trị dứt điểm. Các phương pháp điều trị tích cực như đốt lạnh (dùng nitơ lỏng), khí dung kháng sinh tại chỗ… không cho kết quả lâu dài. Để giảm bớt triệu chứng và đề phòng những đợt cấp hoặc biến chứng, nên áp dụng một phương pháp đơn giản mà hiệu quả: súc họng bằng nước muối loãng.
Nước muối để ngậm cần có độ mặn tương đương với nước canh và ấm hơn thân nhiệt vài độ (nhất là về mùa lạnh) để gây giãn mạch, tăng tuần hoàn tại chỗ, khiến bạch cầu đến đây nhiều hơn. Nên pha sẵn nước muối mặn đựng vào chai, khi súc họng thì pha thêm nước nóng để có độ mặn và độ nóng cần thiết.
Trước tiên, cần súc sạch khoang miệng bằng nước muối đã pha trong khoảng 30 giây. Nếu cảm thấy miệng chưa thật sạch thì làm thêm một lần nữa rồi mới súc họng. Xúc họng khoảng 3-4 lần nữa với nước muối mới, cho đến khi họng không còn cảm giác vướng víu nữa.
Cứ 3 giờ súc họng một lần. Nếu họng đang viêm cấp, khoảng cách giữa hai lần súc họng có thể gần hơn. Điều quan trọng nhất là phải nhớ súc họng trước và sau khi ngủ. Với người hay đi tiểu đêm, cần phải súc họng cả trong những lần thức giấc này.
Kết quả của việc súc họng nước muối sẽ được thấy rõ sau khoảng vài ngày, đặc biệt đối với những bệnh nhân đang ở đợt cấp. Việc điều trị kháng sinh phối hợp là điều không cần thiết đối với viêm họng mãn. Nhưng nếu đang có đợt cấp thì kháng sinh sẽ là cần thiết
Phòng ngừa bệnh viêm họng hạt
Thường xuyên mở cửa sở giúp thoáng khí
 Giữ cho không khí lưu thông sẽ giúp tránh mắc các bệnh đường hô hấp. Đây cũng là cách hiệu quả để phòng tránh bệnh viêm họng mãn tính.
Chú ý vệ sinh khoang miệng
Chú ý vệ sinh cá nhân, thường xuyên rửa tay. Sáng tối đều súc miệng nước muối, sau đó uống 1 ly nước muối nhạt để làm sạch và bôi trơn cho cổ họng, phòng tránh các bệnh viêm nhiễm do vi khuẩn gây ra.
Chú ý giữ ấm, phòng bệnh mũi họng
Viêm họng mãn tính có quan hệ với việc giữ ấm mũi họng và toàn thân. Do đó, không nên để nhiệt độ trong phòng quá lạnh khi ngủ, sau khi tắm gội cần lập tức sấy hoặc lau khô. Ngày lạnh sáng sớm khi ra ngoài cần mang khẩu trang, để tránh mũi họng không phải chịu kích thích của không khí khô lạnh.
Điều chỉnh chế độ ăn uống
- Chủ yếu ăn các thực phẩm thanh đạm, dễ tiêu hoá, cùng các thực phẩm chứa nhiều nước, mềm, có tác dụng thanh nhiệt.
- Nên ăn nhiều các loại rau quả có chứa vitamin C, và các thực phẩm giàu collagen và elastin như móng lợn, các, sữa, các loại đậu, gan động vật, thịt nạc…
- Uống nhiều nước, không nên uống các thức uống quá đặc.
- Kỵ hút thuốc, uống rượu, tránh ăn các thực phẩm gây kích thích như gừng, tỏi, ớt…
Dùng nước muối xông cổ họng
Lấy 1 bát hoặc 1 chậu to đựng nước muối đun sôi, mở to miệng hít thở làn khói đang bốc lên. Mỗi lần 10-15 phút, ngày 2-3 lần.

Thứ Hai, 13 tháng 7, 2015

Tư vấn phòng và điệu trị vô sinh ở nam giới

By With Không có nhận xét nào:
Vô sinh không chỉ là nỗi đau của mỗi gia đình mà còn là vấn đề nan giải của xã hội, vô sinh có thể dẫn đến bạo hành gia đình, hôn nhân đổ vỡ…

Vô sinh ở nam giới là một căn bệnh mang tính xã hội. Bác sĩ phòng khám đa khoa 168 cho biết có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng vô sinh ở nam giới. Trong một số trường hợp, bệnh vô sinh do bệnh ở bộ phận sinh dục nam hoặc do giãn tĩnh mạch tinh hoàn. Số khác là do tinh trùng bị biến chất (do ảnh hưởng của các bệnh viêm nhiễm từ trước đó như quai bị, thay đổi hormon hoặc do biến đổi bất thường của gen).

 NGUYÊN NHÂN GÂY VÔ SINH Ở NAM GIỚI

1. Nhóm vô sinh do không có tinh dịch hay tinh dịch rất ít

Do có các suy tuyến sinh dục, giảm hướng sinh dục; có các bất thường trong quá trình sinh sản tinh trùng; nhiễm sắc thể bất thường; do mất đoạn nhiễm sắc thể Y; bị ảnh hưởng các chất độc hại ảnh hưởng đến quá trình sinh sản tinh trùng; giãn tĩnh mạch tinh; viêm tinh hoàn do bị bệnh quai bị; bị xoắn tinh hoàn; bị tắc đường dẫn tinh (như tắc ống phóng tinh, ống dẫn tinh, mào tinh, ống xuất, lưới tinh) và một số trường hợp không rõ nguyên nhân.

2. Nhóm vô sinh do không có tinh trùng trong tinh dịch

Do có các suy tuyến sinh dục, giảm hướng sinh dục; có các bất thường trong quá trình sinh sản tinh trùng; nhiễm sắc thể bất thường; do mất đoạn nhiễm sắc thể Y; bị ảnh hưởng các chất độc hại ảnh hưởng đến quá trình sinh sản tinh trùng; giãn tĩnh mạch tinh; viêm tinh hoàn do bị bệnh quai bị; bị xoắn tinh hoàn; bị tắc đường dẫn tinh (như tắc ống phóng tinh, ống dẫn tinh, mào tinh, ống xuất, lưới tinh) và một số trường hợp không rõ nguyên nhân.

3. Nhóm vô sinh do tinh trùng ít và yếu

Những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên gồm: do bệnh nội tiết; giãn tĩnh mạch tinh; tinh hoàn ẩn; thuốc; sức nóng; chất độc hại; nhiễm trùng toàn thân; không rõ nguyên nhân.

4. Nhóm có tinh dịch đồ bình thường nhưng vẫn vô sinh

Những nguyên nhân chính gồm: do bất thường ở người vợ; thói quen giao hợp bất thường; cực đầu của tinh trùng (acrosome) không bình thường; có kháng thể kháng tinh trùng; một số trường hợp không giải thích được nguyên nhân.

5. Tinh trùng có đủ số lượng nhưng chết hoàn toàn

Nguyên nhân do tinh trùng có cấu trúc bất thường; hoặc lâu ngày không giao hợp; nam giới bị nhiễm trùng ở đường sinh dục; có kháng thể kháng tinh trùng; giãn tĩnh mạch tinh; tắc bán phần đường dẫn tinh; một số trường hợp không rõ nguyên nhân. 
Dành điều trị cho các trường hợp có tinh trùng yếu. Chi phí điều trị thấp, hầu như vô hại nhưng hiệu quả không cao, không thuyết phục. Có thể chia làm 2 nhóm (dùng thuốc và không dùng thuốc).
Phương pháp điều trị:
NHÓM KHÔNG DÙNG THUỐC

Thường dùng là các thuốc chống ôxy hóa như vitamin E và C hay clomiphene. Nhìn chung, chưa có thuốc nào, dù Đông y hay Tây y, chứng minh được thuốc có hiệu quả rõ ràng trong điều trị vô sinh nam.

Nếu bệnh nhân có tinh dịch bị nhiễm trùng thì dùng kháng sinh sẽ giúp tinh dịch đồ cải thiện nhanh. Nếu bệnh nhân không có tinh trùng do não không tiết ra các nội tiết tố hướng sinh dục để kích thích sinh tinh (FSH và LH), thì chích các chất này mang lại hiệu quả cao (90%) nhưng rất tốn kém và phải chích liên tục với 3 mũi/tuần, trong 6 tháng.
NHÓM KHÔNG DÙNG THUỐC

Áp dụng cho những bệnh nhân không có bệnh lý rõ ràng, bằng cách khuyên bệnh nhân mặc quần lót rộng, tắm thường xuyên để hạ nhiệt ở bìu thì chất lượng tinh trùng có thể cải thiện.

Bỏ thuốc lá cũng là một biện pháp tốt giúp tăng chất lượng tinh trùng. Ngoài ra, hai vợ chồng cần giao hợp thường xuyên, khoảng 2-4 lần mỗi tuần, để giúp kích thích tinh hoàn sinh tinh.

Dành cho các bệnh nhân có bệnh lý. Đối với giãn tĩnh mạch tinh, vi phẫu thuật cột tĩnh mạch tinh giãn hai bên ngả bẹn – bìu giúp tỉ lệ tinh trùng cải thiện trong 60%-70% trường hợp và tỉ lệ có thai là 40% trong 1 năm.
 
 
Dành cho các bệnh nhân có bệnh lý. Đối với giãn tĩnh mạch tinh, vi phẫu thuật cột tĩnh mạch tinh giãn hai bên ngả bẹn – bìu giúp tỉ lệ tinh trùng cải thiện trong 60%-70% trường hợp và tỉ lệ có thai là 40% trong 1 năm.

Quảng Cáo